Ảnh: Đường trong Làng cổ Bát Tràng (Khu vực bảo tồn)
Suy ngẫm về đường Vua đi
- Băng Sơn
Update: 05.05.2014
Battrang 360* - Gần mười thế kỷ kinh đô, một vùng làng cổ, lau sậy hoang vu vút đầm hồ rau lúa, có con cáo trắng, rùa thiêng, trâu vàng, ngựa trắng, cả thần cây đa ma cây gạo..., rồi mọc lên thành quách lâu đài, thênh thang đình tạ mái cong cửa cuốn, đường quan ngựa trạm phi bay...
Từ rốn con rồng (Long Đỗ) có tường thành Đại La của một Luy Lâu tướng Cao Biền yểm bùa lẩy bẩy dậy non... mà con Rồng Vàng bay lên Cấm Thành uy nghiêm bí mật thâm cung, Hoàng Thành tấp nập ngựa voi, đô thành rộn ràng chợ búa, cáng võng xênh xang... Qua thăng trầm mưa gió những ghềnh thác lòng người, máu loang giặc giã, lửa loạn kiêu binh... cho kinh đô Đại Việt chỉ còn là trấn Bắc Thành với đô thị nằm gọn phía trong sông, ngoài kia Mẹ Hồng Hà, Phú Lương, dòng Nhị lượn quanh đê quai cạc như cái vành tai, nên con sông mang tên ấy: Nhĩ Hà, chứng kiến bể dâu chìm nổi trải suốt thiên niên kỷ.
Những triều đại dấy lên, tồn tại, lụi tàn, xô nghiêng thế núi hình sông, bao minh quân, bạo chúa... Hẳn những Cửu Trùng, Bệ Ngọc, Ngai Cao ấy không thể suốt một đời chỉ ngồi im trên vàng son thâm u kín mít mà phải bước vào đời sống dân gian, công cán hay vi hành bằng đôi hài xảo bện rơm hay đôi ủng đôi hia thêu vàng chạm ngọc?
Đường vua đi xuất hiện thế chăng?
Người con gái đứng tựa gốc cây lan, hái dâu hay cắt cỏ, dải yếm phất phơ, váy ba bức yêu kiều, ỡm ờ cất lên câu hát trữ tình, trêu cợt:
Tay cầm bán nguyệt xênh xang
Một trăm thức cỏ lai hàng tay ta...
Câu hát bắt nhà vua phải dừng kiệu, để con ngựa phải cúi đầu hí dài tức vó, để thớt voi phải cong vòi gầm lên câu mừng rỡ duyên ai... Con đường vua đi dẫn nàng Ỷ Lan về cung đã có những rặng cây truyền thống Đông Hòe, Tây Liễu (còn dấu tích của Hòe Nhai và Liễu Giai kia) chưa, hay mới chỉ có giang đầu, bến đá?
Nhà vua trẻ tuổi đa tình đầu mày cuối mắt. Cô trinh nữ thôn dân cũng long lanh đôi ngọc bồ câu đắm đuối. Đôi trai anh hùng, gái thuyền quyên sánh vai trên những con đường nào của một Thăng Long đầy những nhà tranh mái lá, đường đất gập ghềnh, đá củ đậu xước chân nghèo, ngõ quanh lầy lội?
Khi con chó mẹ và đàn chó con (Cẩu mẫu, Cẩu nhi) mang trên lưng chữ “Vương” tượng hình chạy từ thôn Cổ Pháp về làm ổ giữa lòng Đại La, đã làm gì có quán bánh tôm trên đường Cổ Ngư như một chiếc lô cốt bê tông giam gió lại, khóa mây trời vào cốt thép như ngày nay. Nhà vua đi ngựa hay bơi thuyền rồng, áo bào bay tung lên khi người giơ cánh tay ra chỉ sóng mặt hồ Trúc Bạch để lập đền thờ, không quên ơn cả loài vật có công giúp đỡ thuở hàn vi, suốt một đời chỉ biết trung thành.
Những đời vua nào đã động lòng trắc ẩn tình xưa, một lần đến đây thăm lãnh cung, gặp lại người phi tần, cung nữ bất hạnh già nua, tàn tạ nhan sắc, phải tự trồng dâu dệt lấy tấm lụa trắng mà mặc bên gò Mỏ Phượng có rặng trúc la đà, có canh gà thổn thức, có tiếng xa quay như mưa thu rả rích bên những người đàn bà chỉ còn biết thở than:
Cái đêm hôm ấy đêm gì
Bóng dương lồng bóng trà mi trập trùng...
Xa lắc xa lơ, nay chỉ còn là hư ảo mông lung khôn khuây. Nhà vua dừng lại chỗ nào, quắc mắt hay thở dài? Xót thương hay phủi tay tàn nhẫn?...
Xem đầy đủ nội dung bài viết, vui lòng truy cập:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét